Đường về nhà | Đinh Phương Linh
“Một số bạn
bè đề nghị tôi thêm các tình tiết gay cấn vào trong sách. Một số nói họ không
chắc sẽ đi hết được hành trình, vì tám chương đầu đọc cũng ổn, cũng hấp dẫn,
nhưng cứ như thế tới cuối thì không chắc… Tôi lắng nghe, cảm thấy rất biết ơn bạn
bè vì những lời góp ý, nhưng tôi cũng biết mình sẽ không thay đổi được gì. Có
thể cuốn sách của tôi không hấp dẫn, có thể giọng văn của tôi tầm thường, tẻ nhạt,
nhưng đó chính xác là điều tôi muốn làm. Thêm vào đó, tôi biết tôi là một nhà
báo. Tôi đang làm công việc của một nhà báo. Tôi không có ý định dấn thân vào
văn chương.
(…) Tôi đã
gặp gỡ, phỏng vấn Xu để viết cuốn sách này trong hơn một năm. Chúng tôi đã gặp
nhau khi tôi vẫn còn làm việc ở một toà soạn, khi tôi thực sự rất thoải mái về
tinh thần và tiền bạc, chúng tôi tiếp tục gặp nhau khi tôi bỏ việc và gặp khó
khăn về tài chính, khi tôi gặp thất bại trong chuyện tình cảm… Tôi viết cuốn
sách này khi ở ngồi trên ô tô từ Bắc vào Nam, viết trên máy bay từ Sài Gòn ra
Hà Nội, viết ở Yangon, ở Phnom Penh, ở Bangkok, ở Singapore… Tôi viết vì cảm thấy
đây là một câu chuyện cần phải được kể lại, và có lẽ tôi chính là người được chọn
để kể lại. Tôi viết vì một lý do cá nhân khác, vì cảm thấy việc tiếp tục viết
khiến tôi được truyền cảm hứng và có đủ sức mạnh bước tiếp.”
(Đinh
Phương Linh)
Cũng chẳng
có gì đâu. Chỉ là chuyện một cô gái trẻ quyết định năm nay không về nhà ăn Tết
bằng cách thông thường nữa. Nhà cô cách trường 3.395 km. Cô đạp xe từ mùa đông
Bắc Kinh cóng buốt về mùa xuân Hà Nội ẩm ướt. Dưới cái lạnh âm độ C, dưới mưa
tuyết, dưới sương mù dày đặc, cô đạp xe dọc theo những đường nội hạt, đường
vành đai, đường quốc lộ, đường đồi núi cheo leo, đêm tối ngủ nhờ dưới mái nhà của
những con người hào hiệp hoặc trong một nhà trọ tồi tàn. Có ít nhiều gian nan,
có vài lần hung hiểm, có đôi bận chực nản chí, chân cô guồng rất nhanh nhưng
đôi mắt và trái tim cô thả chậm, để cảm nhận bao con người, bao câu chuyện, bao
cuộc đời và quan trọng nhất là bao tấm lòng.
Tất cả những
người biết chuyện này đều bảo cô điên thật rồi. Nhưng chuyện thật cũng có gì
đâu, chẳng qua “Nếu không điên bây giờ thì sau này sẽ già mất..”
Một mình ở Châu Âu | Phan Việt
Bất hạnh là một tài sản
Những người
đàn bà, họ không một mình ngẫu nhiên tới Paris, Venice, Rome, Florence…
Họ có thể
là sinh viên mới ra trường, muốn đến Paris để viết văn; có thể là người đã đi
qua một cuộc hôn nhân, giờ đến đó để nhìn lại; có thể là người bấy lâu vẫn mòn
mỏi chờ đợi mối tình lớn của đời mình và mong nó xảy ra ở châu Âu… Hoặc họ có
thể, như tác giả của cuốn sách này, đến châu Âu một mình để du lịch như một người
không quá khứ, không ràng buộc; và để hỏi những câu hỏi bước ngoặt về tình yêu
và hôn nhân…
Cuốn sách
này, hơn cả một cuốn du ký về những ngày du ngoạn qua các thánh địa mơ ước ở
châu Âu, còn là một hành trình nội tâm xuyên suốt, dai dẳng, và không phải
không đau đớn.
Có thể thấy
điều đó, dẫu chẳng ở châu Âu một mình.
Trích đoạn
trong sách:
“…Nhưng có lẽ đó chính là vấn đề của quảng trường San
Marco, của Venice, và là lý do tại sao đến đây lần thứ hai nhưng tôi vẫn không ấn
tượng với quảng trường này. Có cái gì đó rất Hollywood ở đây và ở khắp Venice.
Những người ngồi sưởi nắng ở đây, và dàn nhạc này không giống với những người
sưởi nắng trong vườn Luxembourg. Bởi vì họ không sống ở đây. Họ đến rồi đi…
Trong tất cả cái đẹp và sự tinh xảo của Venice, tôi không sao thoát khỏi cảm
giác rằng thành phố này đang chết. Nó đang chìm dần. Venice là ngôi mộ của một
quá khứ. Chỉ còn khách du lịch đến đây, và thành phố này chỉ còn đủ người để phục
vụ du khách chứ nó không có những người Venice, như Paris có người Paris, Hà Nội
có người Hà Nội.
Sáng nay, sau khi rời nhà thờ Mary of Narazeth, tôi
mua một vé xe buýt nước theo tuyến số 2 để đi từ đó tới quảng trường San Marco;
tức là gần như đi từ đầu này đến đầu kia của Venice; có điều thay vì lấy vé tuyến
số 1 chạy theo Kênh Lớn thì tôi lấy tuyến xe buýt chạy bên ngoài Lagoon. Với những
người không quan tâm tới hành trình mà chỉ quan tâm tới cái đích cuối cùng thì
tuyến số 1 hay số 2 đều thế cả, chúng đều kết thúc ở quảng trường San Marco;
chính vì thế mà một bà già đã nói khi thấy tôi phân vân ngoài bến:
“Lên đi con, cái nào thì cũng đến quảng trường San
Marco thôi.”
Thuyền chạy từ bến nước ra ngoài Lagoon. Từ đây, tôi
có thể nhìn vào Venice và những công trình kiến trúc của nó – Byzantine,
Gothic, Phục hưng… Tất cả đều tuyệt vời nhưng rất nhiều trong chúng chỉ còn là
những xác nhà đóng kín và đang được UNESCO bảo quản như di sản văn hóa thế giới.
“Di sản” – đấy là một từ chính xác nữa để mô tả Venice. Một thời carnival, các
lễ hội hóa trang, những bữa tiệc và hòa nhạc không ngừng giờ chỉ còn lưu dấu ở
những chiếc mặt nạ bày bán quanh quảng trường và dọc các con đường của Venice;
các ngôi nhà, phòng hoà nhạc từng ngập các ông chúa bà hoàng giờ chỉ còn là những
hành lang mục nát, tường gạch nham nhở, nước lên ngập tầng một vào mỗi trận lụt,
khiến cho rêu rong nấm mốc loang lổ.
Venice đẹp, Venice lạ, nhưng không thể ở đây mà không
ý thức về sự lụi tàn. Phải, tiệc vui mấy cũng có lúc tàn và bữa tiệc Venice có
lẽ đã tàn từ thế kỷ XIX. Tôi cũng như mười hai triệu khách du lịch đến đây mỗi
năm chỉ như những khán giả đến nhìn những gì còn vương vãi từ bữa tiệc đó và cố
hình dung về bữa tiệc.
Dù thế, không thể không ngả mũ kính phục người Ý. Họ
muốn xây một thành phổ nổi trên mặt nước, vậy là họ xây một thành phố nổi trên
mặt nước. Họ muốn một thành phố như một đại tiệc không dứt, và họ đã có một
thành phố là một đại tiệc không dứt. Cái đến sau là việc của cái đến sau. Sự lụi
tàn trong tương lai không thể là điều ngăn trở sự sản sinh trong hiện tại. Có lẽ
tôi và Sơn nên chia tay.”
0 comments:
Post a Comment